Thứ Bảy, 23 tháng 11, 2024

Thơ Tình Chùm Số 1.226

 

Thế Kỷ Tang Thương

 

Than ôi! Thế kỷ tang thương

Bao lần đại dịch thê lương thế này?

Ngây thơ dân tộc đắng cay

Cờ đen nấm mộ chuỗi ngày khổ đau

 

Cội nguồn ta hỏi từ đâu?

Vi trùng mầm bệnh nhuốm màu thịt tươi

Chiến tranh sinh học giết người

China Vũ Hán trò chơi thế quyền

 

Tập đoàn tham nhũng vì tiền

Con đường tơ lụa đảo điên hoàn cầu

Cho vay bẫy nợ mưu sâu

Dụ bầy cá đói cắn câu độc tài

 

Thân người co quắp bi ai

Xây lò hỏa táng vành đai mịt mù

Mùa đông gió thổi âm u

Hồn ma bóng quế vân du nẻo nào?

 

Mẹ cha nước mắt nghẹn ngào

Đàn con nheo nhóc khóc gào đòi ăn

Xác người không liệm nằm lăn

Phố phường chồng chất trở trăn nỗi niềm

 

Vầng trăng ảo não bên thềm

Ăn sương tiếng quạ buông rèm quạnh hiu

Dương cầm thánh thót buồn thiu

Chuông chùa phảng phất dập dìu hồn ma

 

Điêu linh bốn bể châu hà

Hỏa Thần Sơn động, đạo tà chủ trương

Tranh giành bá chủ siêu cường

Một rừng xương cốt đại dương thảm sầu!

 

31.3.2020 Lu Hà

 

 

 

Y Đức Hai Họ Mộng Bào

cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 21

 

Nằm ngửa mặt tay chân sõng sượt

Hơi nóng hun trán mướt mồ hôi

Màu vàng nhiệt thấp xuống rồi

Xạm đen da mặt bờ môi xanh rờn

 

Nghe giọng nói chập chờn trong gió

Lảm nhảm mồm chứng tỏ gần điên

Bỗng nhiên ngắc ngoải kêu rên

Tò te kèn thổi trống rền hồn ma

 

Vậy cần phải truy ra nguồn gốc

Nóng lạnh hoài thở dốc từng hồi

Biếng ăn sức lực cạn rồi

Bệnh này ngoại cảm than ôi làm gì

 

Ho khục khặc không đi đứng được

Âm khí dư thao thức lo âu

Biết ba chứng ấy do đâu

Ngoài ra sốt rét từ đầu đến chân

 

Này kiết lỵ tinh thần uể oải

Biết nội quan bên phải bồn chồn

Ruột già lá lách mệnh môn

Dạ dày tim phổi nổi cồn ruột non

 

Phía tay trái vẫn còn gan mật

Mạch thận nguyên co rật bàng quan

Ruột già bộ thốn phổi khan

Lại xem bên phải bộ quan thế nào?

 

Màng tim kia hư hao bộ xích

Vẫn sóng đôi hợp bích tam tiêu

Vào nghề bí quyết lắm chiêu

Bộ quan tay phải dịch nhiều rõ chưa

 

Tiều lại hỏi bệnh vừa sinh tử

Phút cận kề xin thử liệt kê

Thúc Hòa xưa đó dám chê

Xem hình tướng sắc hôn mê biết liền

 

Dẫn trả lời tổ tên gia phả

Vương Thúc Hòa đại phá kinh luân

Vành quanh mắt trũng đến tuần

Sắc đen tai mũi lìa trần biết ngay

 

Thấy mệt nhọc tám ngày là chết

Miệng xạm đen sắp tuyệt mệnh rồi

Khò khè mắt trắng than ôi!

Mười ngày sẽ rõ nổi trôi linh hồn

 

Mặt lại xanh bồn chồn giờ ngọ

Thận chế tỳ lấp ló yêu ma

Chết không kịp ngáp bóng tà

Mộc kia khắc thổ quan hà giá băng

 

Kim khắc hỏa rõ ràng can tuyệt

Tâm bơ vơ thảm thiết thở ra

Há to miệng cá cổ gà

Giãy lên đành đạch ông bà tổ tiên

 

Hồn ngơ ngác bỗng nhiên rùng rợn

Mặt sưng lên mắt trợn môi khô

Ra đi để lại nấm mồ

Rêu phong bia đá ô hô suối vàng !

 

*Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp

30.3.2020 Lu Hà

 

 

 

Y Đức Hai Họ Mộng Bào

cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 22

 

Chẳng giúp gì giàu sang phú quý

Nhân trung dầy bi lụy môi xanh

Mong manh chiếc lá lìa cành

Còn ba ngày nữa thân đành nằm im

 

Gò má đỏ chứng tim suy kiệt

Miệng há ra thảm thiết phế tỳ

Mười ngày hồn xuống âm ty

Chân tê sưng gối thanh y liệm dần

 

Gân cổ lỏng sắp gần cái chết

Lòng bàn tay ngấn vết không còn

Khai nồng nước tiểu hao mòn

Són ra bọng đái đen hòn dái teo

 

Âm hộ thâm bóng mèo ngơ ngác

Móng chân tay xơ xác đen xanh

Lắc đầu hơi thở hôi tanh

Đồ ăn mang đến thôi đành đổ đi

 

Hẹn bốn ngày chim di bướm dại

Hạ huyệt ngay tê tái quan san

Đau sương sống sáu ngày tàn

Rên la chửi bới khóc than chín ngày

 

Tóc cứng lại ai hay bàn chải

Xoắn ruột non thấy ải Phong Đô

Nửa ngày ngắc ngoải ô hô

Mười phần đã chết nấm mồ quạnh hiu

 

Ngư mạch tượng ỉu xìu khó đoán

Dẫn đọc ngay mấy đoạn sách y

Hai mươi tám bộ mà suy

Từng trang rành mạch tướng tùy tâm can

 

Coi thể trạng mà bàn y thuật

Tên mạch nhiều giả thật âm dương

Mạch phù sao biết thất thường

Mạnh khi lên xuống laị không thấy gì

 

Một hơi thở mạch trì ba lượt

Mạch sác thì hơi tuột sáu lần

Hạt trai xâu chuỗi tần ngần

Rõ ràng mạch hoạt dần dần lại mau

 

Mạch đại ấn theo nhau chìm xuống

Sức lực nào tình huống lâm nguy

Ngậm ngùi mạch hoãn lâm ly

Mạch hồng sóng nước lạ kỳ sục sôi

 

Mạch thực nổi mấy hồi khác hẳn

Mạch huyền kia chắc chắn giương cung

Dây căng mạch khẩn tới cùng

Giống như vặn chạc bập bùng ngón tay

 

Mạch trường khâu ai hay ngoài bộ

Ở hai đầu tưởng có giữa không

Mạch vi tơ nhện bềnh bồng

Xem ra mạch tế phập phồng dễ coi

 

Mạch nhu yếu hiếm hoi tay ấn

Mạch nhược thì lận đận có không

Phều phào đứt quãng khó trông

Mạch hư tuy mở mênh mông cõi trời

 

Mạch cát bền thảnh thơi da trống

Hạt đậu lăn mạch động biết ngay

Dật dờ mạch tán ngón tay

Tận xương mạch phục ô hay vẫn chìm

 

Nếu mạch tuyệt đừng tìm chi nữa

Mạch đoản càng lần lữa nửa chừng

Tăng dần mạch xúc là mừng

Than ôi mạch kết biết dừng khi nao?

 

*Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp

3.4.2020 Lu Hà

 

 

 

Y Đức Hai Họ Mộng Bào

cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 23

 

Xích lại gần xầm xì to nhỏ

Chủ mạch nào bệnh đó phát ra

Ngư tiều trong sách nhà ta

Mạch nào chứng ấy thiết tha giãi bày

 

Bệnh phong cùi tới ngày thổ huyết

Hoạt tắc đờm thân nhiệt thì cao

Biết ngay người ấy bị lao

Thương hàn hồng tụ cồn cào rốn tê

 

Sắc hao tổn hôn mê hại huyết

Phục lạnh trì thảm thiết cách quan

Người già nhức nhối kêu than

Toàn thân ê ẩm đổ tràn mồ hôi

 

Trường khí tốt đoản rồi là bệnh

Tránh làm sao tế chệch đại suy

Khí hư nhiều ít cũng tùy

Động kinh co rật u tỳ ngục sâu

 

Sắc nhợt nhạt buồn rầu rên riết

Bệnh di tinh băng huyết lạ lùng

Tiều kêu chẩn trị mông lung

Chín đường thất biểu ngại ngùng nói ra

 

Đạo Dẫn nói ấy là bát lý

Theo mạch kinh sinh ký tử quy

Sách coi biết rõ tục y

Có ông Trọng Cảnh thần kỳ khảo biên

 

Ngư suy diễn dẫn truyền từ gốc

Sách đã biên dấu mốc làm gì?

Dẫn cười sách thuốc thiếu chi

“Hãn ngưu sung đống“ được ghi tận tường

 

Gốc tính từ Cao Dương hiển hách

Vương Thúc Hòa bắt mạch gọi tên

Về sau họ Đới nối liền

Mạch thư soạn thảo mà nên chu toàn

 

Đan khê cũng tân toan sau trước

Hậu học theo thảo dược chiết trung

Nhiều ông mạch lý tận cùng

Phương nào thuật ấy trập trùng vô biên

 

Hội mây rồng triền miên đeo đuổi

Ganh đua nhau rắc rối muôn đường

Để rồi nhầu nát như tương

Phù, trầm, trì, sác y phương nẻo nào?

 

Tứ tông ấy thất thường biến cải

Coi bộ ba biên ải gió bay

Trải bao khổ luyện mới hay

Ngàn năm bốn mạch ta nay thuộc lòng

 

Kinh thái âm long đong mạch hội

Phải tinh tường rắc rối ra sao?

Thố quan sống chết âm hao

Dương suy thần sắc mạch nào lâm nguy

 

Ba cách ấn cũng tùy thuận nghịch

Nổi giưã chìm tới đích sác trì

Ngũ hành hư thực mạch đi

Rất là phiền phức suy vi bệnh tình

 

*Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp

5.4.2020 Lu Hà

 

 

 

Y Đức Hai Họ Mộng Bào

cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 24

 

Nơi cửu hậu rập rình thập biến

Tạng phủ còn ẩn hiện như ma

Bệnh này mạch đủ bộ ba

Khi lên lúc xuống bày ra lắm trò

 

Tay phải cứng thăm dò tim mạch

Lúc nằm ngang đừng tách thiên hòa

Thất thường nhảy gấp mắt hoa

Nếu không ứng nghiệm nhạt nhòa mồ hôi

 

Hai lần biến bồi hồi tâm dạ

Không thấy lo cũng lạ mới kỳ

Dù nam hay nữ như y

Giờ dần tái hiện thì tùy liệu cho

 

Số năm mươi chớ lo lắng sợ

Thái diễn kia sáng tỏ linh thiêng

Bốn mùa lấy khí gốc giềng

Sáu con giáp tiếp trống chiêng làm gì

 

Anh với em đền nghì mai trúc

Để ngàn năm tùng cúc thỏa nguyền

Trai hùng gặp gái thuyền quyên

Tu mi nam tử sánh duyên má đào

 

Khi xem mạch dạt dào tâm trí

Then chốt nào giản dị vô cùng

Chớ nên bấn loạn lung tung

Nhìn gà hóa cuốc mông lung mịt mờ

 

Kinh mạch nào phải sờ tay biết

Tạng phủ nào nhất thiết tinh tường

Mạnh suy biến hóa thất thường

Ung dung thanh thản tìm đường cứu nguy

 

Rõ nguồn gốc phải suy xét kỹ

Chuyên tay nghề tối kỵ chủ quan

Quản chi vất vả bần hàn

Lương y từ mẫu thế gian lưu truyền

 

Ý sâu sắc mấy thiên sách quý

Vốn bách gia tận tụy khảo tra

Còn nhiều y quán viết ra

Kiêm lời tiểu tự thiết tha biên hoài

 

Thủ tự ấy anh tài cổ võ

Thực hư coi ba bộ tử sinh

Tuyệt vời rõ mạch kỳ kinh

Thiên hòa chẳng chịu u minh dốt ngầm

 

Tấm biển treo y lâm rành rẽ

Chữ tam công cặn kẽ nghĩa gì?

Đạo Dẫn bốn chữ thiên tri

Vong văn, vấn, thiết rõ ghi ba tầng

 

Chữ vọng văn dạ vâng phu tử

Bậc thượng công thứ tự đứng trên

Trung công chữ vấn này biên

Tinh tường y lý xây nền quang vinh

 

Còn chữ thiết thì mình gánh chịu

Bậc hạ công buồn thỉu buồn thiu

Mong gai xin chớ ỉu xìu

Thị phi điều tiếng búa dìu lang băm.

 

*Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp

5.4.2020 Lu Hà

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét