Thứ Tư, 30 tháng 12, 2020

Bình Giảng Thơ Lu Hà Do Thu Hà Diễn Ngâm Phần 60

 

Hồng Nhan Bạc Mệnh (6)

 

Video số 6 này Thu Hà ngâm thật là tuyệt vời. Đoạn Hồng Nhan Bạc Mệnh này dài 60 câu tôi nghe không thấy chán, càng nghe càng ham vì các câu thơ bìu ríu tha thiết quấn quít nhau vần điệu rất khít. Theo tôi có thể nói là chỉn chu về thanh luật lục bát. Nên tôi thích thú quá mà gõ luôn một tràng liên thanh cũng thơ lục bát tặng nghệ sĩ Thu Hà.

 

Mủi Lòng Cát Sĩ

cảm xúc khi nghe Thu Hà ngâm video số 6

 

Đoạn này dài sáu mươi câu

Giọt mưa cẩm tú ngọc châu tuôn trào

Thu Hà nước mắt nghẹn ngào

Ba trăm năm khóc má đào tàn phai

 

Đất trời sầu thảm bi ai

Đoạn trường cung nữ canh dài khổ đau

Than ôi! hương phấn phai màu

Ngày xuân nông nổi trầu cau lỡ làng

 

Nửa vòng trái đất mênh mang

Mủi lòng cát sĩ khói nhang nấm mồ

Cỏ khâu đom đóm san hô

Chập chờn sóng biển sông hồ biệt ly

 

Oán hờn xuống cả âm ty

Hồn ma xiêm áo nhung y thì thào

Lầu trang ủ rũ cánh đào

Gió đông cười cợt cảnh nào buồn hơn?

 

Nửa đêm gà gáy đòi cơn

Cung đàn bạc mệnh chập chờn bướm bay

Tham mùi phú quý ai hay

Hang hùm nọc rắn đọa đày não nhân

 

Tiếng thơ nức nở muôn phần

Nguyễn Du phảng phất thương thân nàng Kiều

Đông di thảo mộc sớm chiều

Côn trùng rên rỉ phiêu diêu nỗi mình!

 

1.11.2019 Lu Hà

 

“ Đêm mong ngày nhớ hoài vương

Năm canh sáu khắc cố hương sụt sùi

Bóng đèn u tịch ngậm ngùi

Ngoài sân giá lạnh đất vùi dế giun“

 

Cảnh ngộ nàng cung nữ có khác chi nàng Kiều nhớ cha mẹ và người yêu là chàng Kim Trọng ở quê nhà. Cung nữ theo tôi còn đau khổ ê chề hơn cả đời một cô kỹ nữ lầu xanh mà tôi mô tả trong tập Tài Mệnh Tương Đố:

 

“Kiều thơ thẩn tủi hờn non nước

Quê hương người thao thức bơ bơ

Hai thân tựa cửa đứng chờ

Nắng mưa Lai Tử hững hờ nỡ sao?

 

Buồn cửa biển lao xao sóng vỗ

Đàn hải âu lố nhố xa xăm

Cặp đôi dưới ánh trăng rằm

Ngàn dâu xanh ngát con tằm nhả tơ

 

Buồn ngọn cỏ hồn thơ ngơ ngẩn

Man mát trôi lận đận cánh hoa

Thương mình ứa lệ nhạt nhòa

Xứ người cô quạnh thềm hoa não nùng

 

Cơn gió thoảng chập chùng biển cả

Nhớ tình quân ngọc đá chưa tan

Cách xa muôn dặm quan san

Đêm nằm mộng tưởng nồng nàn ái ân“

 

Hay là:

 

“Kiều ngao ngán nét ngài ủ rũ

Buối chiều tà chuyện cũ rối bời

Tình quân góc bể chân trời

Cù lao chín chữ lệ rơi đôi hàng

 

Nhớ lời nguyện bẽ bàng thục nữ

Kim Lang ôi thiếp phụ chàng rồi

Mười hai bến nước nổi trôi

Ngậm ngùi hỏi liễu xa xôi Chương Đài

 

Cành xuân bẻ trần ai chăng chớ

Xót ngươi cùng cảnh ngộ quan san

Giấc mơ  khắc khoải canh tàn

Đoạn trường trong sổ hồng nhan hãi hùng“

 

Bình giảng tiếp Hồng Nhan Bạc Mênh. Mong mọi người theo dõi bám sát từng câu thơ và mọi tình tiết liên đới trong tâm tư người cung nữ.

 

“Chuông rền chớp giật mưa phun

Ngó qua song cửa mây đùn non xa

Còn đâu xiêm áo thướt tha

Nương thân vách quế xế tà tịch dương

 

Bởi tay Nguyệt Lão chủ trương

Chẳng xe thì chớ chân giường cột dây

Chim lồng cá chậu đọa đầy

Thâm nghiêm kín cổng tường xây lối về”

 

Cảnh cung nữ làm vợ lẽ hờ cho vua chẳng khác chi cảnh giam cầm tù ngục, con chim trong lồng con cá trong chậu, một cuộc đời tăm tối không có ánh sáng tự do.

 

“Ngẩn ngơ nuối tiếc đê mê

Xuân đào năm ngoái tràn trề yến anh

Chim khôn cúc trái trên cành

Còn đâu cảnh cũ năm canh não nề

 

Hoa vầy ong bướm chán chê

Ký sinh vô vị dầm dề hóa công

Hoàng hôn rèm rủ phòng không

Đốt lò hương khóc mênh mông khói sầu”

 

Xuân đào năm ngoái ví người cung nữ có nhan sắc như hoa đào. Tich chuyện xưa kể rằng: Thôi Hộ đời Đường nhân ngày tết thanh minh đi tảo mộ hóa vàng có ghé vào một trang trại xin chén nước trà của một cô thiếu nữ đứng ở cửa ngõ bên cạnh cây đào. Người con gái mời chàng chén nước trà và nhìn Thôi Hộ bằng cặp mắt hữu tình. Năm sao cũng vào dịp lễ Thanh minh, Thôi Hộ quay trở lại

muốn gặp lại cô gái đó, nhưng không thấy mới đề một bào thơ cài trước cửa:
“Khứ niên kim nhật thử môn trung

Ngân diện đào hoa tương ánh h ồng

Nhân diện bất tri hà xứ khứ

Đào hoa y cựu tiểu đông phong“

 

Ngày này năm ngoái đến thăm thấy người đẹp và hoa đào nở. Năm nay chỉ thấy gió đông và chẳng thấy người đó đâu, hoa đào diễu cợt với gió đông. Tới năm thứ ba Thôi Hiệu lại ghé qua thì thấy trong nhà cửa đóng có tiếng khóc ai oán. Hỏi ra mới biết cô gái đó vì bài thơ của Thôi Hộ năm ngoái mà ốm tương tư đã chết rồi. Hộ xin vào thăm đến bên tử thi gọi to lên rằng: “Có Thôi Hộ đến đây, tác giả bài thơ “Đề Đô Thành Nam Trang“. Cô gái tưởng đã chết rồi bất ngờ tỉnh dậy và sau đó họ kết thành vợ thành chồng.

 

Trong sinh học và sinh thái học, có một loài là gọi ký sinh, sống bám vào loài kia là vật chủ hay ký chủ. Sinh vật ký sinh và ký chủ có thể là động vật hay thực vật. Trong y học, ký sinh trùng hay động vật ký sinh là sinh vật chiếm sinh chất của các sinh vật khác đang sống để tồn tại và phát triển. Trong tự nhiên rất nhiều sinh vật tự kiếm lấy thức ăn cho mình nhưng ký sinh trùng phát triển theo hướng khác, chúng sống gửi, sống bám hoàn toàn hoặc một phần vào loài khác, như giun móc hay ký sinh trùng sốt rét. Những động vật ký sinh điển hình như các loài giun sán ký sinh trong ruột, chấy rận ve ký sinh ngoài da vật chủ. Những thực vật ký sinh điển hình như các loài cây tầm gửi và tơ hồng. Người cung nữ tự ví mình như loài ký sinh sống dựa vào nguồn thực phẩm do nhà bếp của triều đình cung cấp, chả làm gì suốt ngày vào ra trang điểm ngóng vua tới thăm để cốt sinh ra một đứa con. Nhưng vua không thèm bén mảng ngó ngàng gì nên đốt lò hương mà khóc.

 

“Bực mình muốn đạp gác lầu

Vầng trăng cô quạnh bóng câu muộn màng

Ôm cầm gảy khúc trễ tràng

Đông ri thảo mộc dở dang khối tình“

 

Cổ cầm là một loại nhạc cụ  bên Tàu gồm có 7 dây. Theo truyền thống được các học giả và sĩ phu yêu thích và xem là loại nhạc cụ thanh nhã, tinh tế, như được nhấn mạnh trong thơ văn: quân tử không thể rời cầm hay sắt tiền thân đàn tranh của Việt Nam. Tương truyền, vua Nghiêu là người phát minh ra đàn cổ cầm.

 

Đông ri thảo mộc hay là Đông trùng hạ thảo là một loại đông y dược phẩm quý có bản chất là dạng ký sinh của loài nấm. Nó được sử dụng từ lâu trong y học cổ truyền Trung Hoa và y học cổ truyền Tây Tạng. Tên gọi đông trùng hạ thảo là xuất phát từ quan sát thực tế khi thấy vào mùa hè nấm mọc chồi từ đầu con sâu nhô lên khỏi mặt đất. Vào mùa đông thì nhìn cặp cá thể này giống con sâu , còn đến mùa hè thì chúng trông giống một loài thực vật hơn.

 

“Hiên tây ảm đạm điêu linh

Quảng Hàn hiu quạnh một mình Hằng Nga

Vén mây ngó khắp sơn hà

Cuốc kêu khắc khoải gia gia nhớ nhà“

 

Hằng Nga sau khi ăn vụng tiên đan liền bay lên trời. Ngọc Hoàng biết được liền thưởng cho nàng con thỏ bạch và cho ở cung Quảng Hàn tức mặt trăng.  Ngô Cương là lính gác Nam Thiên môn, tình cờ gặp được Hằng Nga, vì thế ở lại cung Quảng Hàn chơi một ngày, kết quả là vì đi chơi trong giờ làm khiến Ngọc Đế tức giận mà phạt làm đày tớ ở cung Quảng Hàn. Ngô Cương vốn là người đốn củi, hằng ngày chặt cây quế, không chăm chỉ làm việc nữa mà lười biếng thích nghỉ ngơi, khi đó cây quế liền chậm dãi lành lại, ngày qua ngày, Ngô Cương vẫn không thể hoàn thành công việc, nên vĩnh viễn phải chặt cây. Việt Nam thì  quen gọi là chú Cuội.

Cuốc kêu khắc khoải cái gia gia có nguồn gốc từ bài thơ Qua Đèo Ngang của bà Huyện Thanh Quan:

 

Qua Đèo Ngang

 

“Bước tới đèo Ngang bóng xế tà,

Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.

Lom khom dưới núi tiều vài chú,

Lác đác bên sông rợ mấy nhà.

Nhớ nước, đau lòng con cuốc cuốc,

Thương nhà, mỏi miệng cái gia gia.

Dừng chân đứng lại: trời, non, nước,

Một mảnh tình riêng, ta với ta.“

 

“Oán hờn thay phận đàn bà

Dốc bình phấn mốc tiếng gà ỉ ôi

Da nhăn nhưng vẫn cố nhồi

Son khô móc cặn đứng ngồi chẳng yên

 

Hết thời thong thả phẩm tiên

Tay phàm hờ hững vô duyên chán chường

Vắng tanh hơi lạnh thê lương

Chênh vênh kim ốc bi thương hãi hùng“

 

Phẩm tiên chỉ người con gái trong trắng băng tuyết ngọc ngà. Nhưng chẳng may lại rơi vào tay phường vô lại như đoạn thơ tôi mô tả trong tâp Tài Mệnh Tương Đố:

 

“Họ mã vội rước về biệt phủ

Khóa buồng xuân trướng rủ màn che

Ngại ngùng sương gió e dè

Lòng đau ruột thắt bóng đè đào tiên

 

Phẩm thơm nức đòi phen suồng sã

Biết rồi đây vàng đá phôi phai

Hoài công gìn giữ cho ai

Nhị hồng thà bẻ u hoài thở than

 

Người chung thủy quan san ngàn dặm

Giờ ở đâu thê thảm thế này

Trùng phùng thỏa ước hương say

Còn đâu hy vọng đắng cay nỗi lòng

 

Thân bồ liễu long đong tứ hải

Áng mây Tần quan ải mù sương

Chôn nhau cắt rốn cố hương

Ngậm ngùi gió Sở tha phương xứ người

 

Kiều càng nghĩ càng rơi nước mắt

Sẵn con dao gói chặt vào khăn

Phòng khi họ Mã dữ dằn

Quyết liều sinh tử tấm thân cát đằng

 

Trời oan nghiệt xích thằng chặt đứt

Bởi vì ai nỡ dứt tơ hồng

Tuyệt đường thiếp phải theo chồng

Gìa nua vô lại đèo bồng thiên nga…“

 

Kim ốc nghĩa là nhà vàng.Theo điển tích khi Hán Võ Đế còn làm thái tử, rất thích  Trần A Kiều hay gọi tắt là Trần Kiều. Mẹ là Quán Đào công chúa Lưu Phiếu, hoàng nữ duy nhất của Hán Văn Đế Lưu Hằng, cô mẫu của Hán Võ Đế Lưu Triệt.

Công chúa Lưu Phiếu chỉ A Kiều hỏi thái tử Lưu Triệt: Có muốn A Kiều làm vợ không? A Kiều có đẹp không? Để đáp lại Hán Võ Đế nói: Nếu được A Kiều sẽ xây một tòa nhà bằng vàng cho ở.

 

“Buồn vì hoa rụng não nùng

Soi gương biếm họa tận cùng khổ đau

Vân mồng ai biết trước sau

Hồng trần phủ bụi vàng thau lu mờ“

 

Vân mồng nghĩa là tin tức,ngóng trông chờ đợi nhưng vẫn biệt vô âm tín mất tăm hơi.

 

“ Lân tinh đom đóm dật dờ

Nấm mồ vô chủ xác xơ bướm vàng

Bon chen quyền quý cao sang

Mỉa mai giấc mộng phũ phàng Nam Kha

 

Gốc hòe đàn kiến vào ra

Đêm vui ngắn ngủi xót xa kiếp người

Phấn son xiêm áo tả tơi

Phù dung bèo bọt về nơi bến nào?“

 

Nàng cung nữ nghĩ đến tương lai mà mờ mịt. Không biết sau này thân xác bị chôn vùi ở đâu? Như mả Đạm Tiên vậy? Được tôi mô tả trong tập Tài Mệnh Tương Đố:

 

“Xem phong cảnh bồn chồn xao động

Ngọn tiểu khê tiếng trống thu ba

Bâng khuâng sáo trúc ngân nga

Lập lòe đom đóm sập sà mả hoang

 

Cầu tre nhỏ bắc ngang dòng suối

Khí âm u lùa tới vây quanh

Vương Quan mới kể ngọn ngành

Đạm Tiên diễm lệ tài danh uổng đời

 

Biết bao kẻ một thời mến mộ

Chốn quần thoa rượu đổ thâu canh

Vương tôn công tử yến anh

Hồng nhan bạc mệnh mong manh ái tình

 

Có người khách ôm hình gấm lụa

Tìm tới nơi giàn dụa thương đau

Phấn son hương sắc phai màu

Bình tan trâm gãy nát nhàu cỏ cây

 

Khói hương lạnh bấy chầy năm tháng

Kiều nghe ra cay đắng xót xa

Thương nàng kỹ nữ tài hoa

Vân cười chị khéo nhạt nhòa lệ rơi

 

Dư nước mắt khóc người thiên hạ

Thắp nén hương từ tạ khói bay

Chắp tay khấn nguyện nào hay

Phũ phàng chi kiếp tỉnh say mặn nồng

 

Đời mòn mỏi má hồng son phấn

Vẫn trắng tay tủi hận đêm trường

Không chồng tiếp khách thập phương

Thác đày âm phủ thê lương não nùng.

 

Nào những kẻ loan chung phượng chạ

Chốn lầu xanh suồng sã bế bồng

Thâu canh chuốc chén rượu nồng

Còn ai chăng tá yếm hồng đào nương

 

Ta thương tiếc nén hương tri ngộ

Một đôi lời thổ lộ tâm can

Giữa đường gặp gỡ hỏi han

Oan hồn dưới đó gian nan thế nào?

 

Câu tứ tuyệt nghẹn ngào nhỏ lệ

Sẵn trâm cài nhỏ nhẹ nguồn cơn

Sầu tuôn lã chã tủi hờn

Da cây rỉ máu chập chờn heo may

 

Điều bạc mệnh đắng cay ân oán

Chẳng từ ai kiếp nạn hồng nhan

Vận người nằm đó mà than

Vương Quan e ngại khuyên can dỗ dành

 

Âm khí lạnh rung cành sương giá

Dấu dày in sỏi đá cuốn cờ

Thất kinh hoảng hốt sững sờ

Hồn ma u hiển hoang sơ ngỡ ngàng

 

Kiều day dứt tạ nàng thêm nữa

Bài cổ phong chan chứa hữu tình

Tuy không nhìn rõ dáng hình

Lờ mờ nhân ảnh lòng mình nôn nao…!

 

Thôi đành vậy dù sao chăng nữa

Tình chị em khách khứa làm gì

Đời người như cánh chim di

Ong ve bướm vãn thầm thì bên tai.”

 

“ Buồn trông cánh nhạn lao xao

Phong thư nhắn gửi sa vào vườn hoa

Kinh đô rơi lệ nhạt nhòa

Thương chàng Tô Vũ máu hòa sữa dê“

 

Tô Vũ là ai xin đọc bài thơ sau cuả tôi sẽ lý giải tường tận:

 

Mối Tình Tô Vũ

 

Đi sứ mà không thẹn quốc phong

Anh hùng danh sĩ sáng triều cương

Thuyền Vu gian trá hòng lung lạc

Tô Vũ nào xanh vỏ đỏ lòng

 

Ngục tối chẳng sờn bậc trí nhân

Trung quân ái quốc tấm lòng son

Hung nô run sợ người quân tử

Đày aỉ đàn dê đực đẻ con ?

 

Sớm tối bạn bầy với cỏ cây

Bức thư gửi nhạn gió mây bay

Một mai đỗ xuống vườn cung cấm

Hán Đế bàng hoàng đau xót thay

 

Trời đất hoang vu tuyết phủ dày

Nỗi buồn tê tái có ai hay

Bỗng đâu tiền sử xa xưa gọi

Bốn mắt nhìn nhau rụng rã rời…

 

Họ đã cô đơn thành vợ chồng

Rừng sâu rùng rợn nghiã tào khang

Đêm đông giông bão tình ân ái

Một bước chẳng dời bao mến thương

 

Rồi một ngày kia rụng cánh tàn

Muà hoa chẳng trọn tháng ngày xuân

Hán- Hồ hai nước thành giao hảo

Thánh chỉ ban ra giận dỗi hờn

 

Vua bắt chàng về Tô Vũ ơi!

Nuí rừng thăm thẳm trái tim rơi

Đàn dê nhớ chủ kêu thê thảm

Gió rít nguồn cơn giọt vắn dài

 

Bi tình bi sử xót thương đau

Lẽo đẽo tiễn đưa lệ ưá sầu

Kẻ ở người đi đường khấp khểnh

Người rừng thiếu phụ nhớ trăng thu

 

Quan aỉ cỏ cây cũng héo hon

Quân binh nuốt giọt suối ưu phiền

Thương người danh sĩ duyên tiền sử

Khoảng cách ngàn năm hận thế trần

 

Bốn mắt đăm đăm buồn thảm thiết

Tháng ngày hạnh phúc phút ly tao

Chàng về sứ sở nàng heo hắt

Thui thuỉ từng cơn gió tuyết gào…

 

Một gói cỏn con của nuí rừng

Đường xa dạm thẳm xót thương cùng

Chớ quên đói khát ôm nhau khóc

Đèn đỏ thành đô đêm vắng trăng...

 

Nàng lại trở về hang tối xưa

Ngoái đầu hút bóng bước chân xa

Ổ rơm lạnh lẽo con thơ dại

Trằn trọc hoang vu lệ ứa trào

 

Người ở kinh thành muôn tiếng reo

Hai hàng văn võ giữa vương triều

Hán vương ngự giá  nghênh thân tiếp

Tô Vũ bâng khuâng một chén sầu

 

Tôi viết bài thơ tỏ ngợi ca

Mối tình Tô Vũ với trăng sao

Ngàn thu vằng vặc còn thương nhớ

Thiếu phụ rừng xanh trong cõi mơ.

 

2008 Lu H à

 

“Buồn nghe ngọn gió sơn khê

Vương Tường khăn lụa não nề bắc phương

Tỳ bà gảy khúc hoài hương

Hồng nhan bạc mệnh đoạn trường biệt ly“

 

Vương Tường là ai cũng xin đọc bài thơ sau, mọi sự sẽ sáng tỏ:

 

Thương Khóc Nàng Chiêu Quân

 

Chiêu Quân! Ơi hỡi Chiêu Quân!

Nghìn thu biền biệt trần gian tủi hờn

Dặm trường non nước Kinh môn

Minh Phi quê quán vẫn còn sầu tang

 

Yến anh nấm cỏ ngỡ ngàng

Trăng lên gót ngọc đài trang dịu dàng

Mạch sầu ai oán dở dang

Tiếng Hồ khúc nhạc bẽ bàng người ơi!

 

Chiêu Quân nàng đã đi rồi

Hôm nay có kẻ đứng ngồi tơ vương

Hồn kêu nức nở đau thương

Giữa làn mây trắng cánh hồng hạc bay

 

Phôi pha bức họa còn đây

Càng nhìn càng ngắm mà say vẻ tình

Tỳ bà thánh thót cô mình

Sen vàng bảng lảng biên đình trúc xinh

 

Chúc hoa mộng ước xập xình

Nghê thường vũ điệu bóng hình của ai

Lu Hà lạc lối thiên thai

Nụ hôn dàn dụa canh dài lệ chan!

 

26.5.2014 Lu Hà

 

 

Nỗi Lòng Nàng Chiêu Quân

 

Hắc thủy mênh mông chở nỗi sầu

Ngọn đèn tê tái suốt canh thâu

Sông ơi có chảy về quê mẹ

Mang hạt châu sa  kẻ cống Hồ

 

Trọn kiếp hồng nhan tủimá đào

Căm tên hoạ sĩ nỡ sai ngoa

Mặt hoa da phấn bôi ra mực

Trích lệ khoé ruồi số sát phu....

 

Xé mảnh luạ đào cắn máu thơ

Đôi dòng trăng trối gửi ngàn thu

Nhạn kia đem cánh hoa tiên ấy

Trở lại thành đô dâng Hán Vua

 

Chiếc bách lênh đênh nặng oán hờn

Quan san Hồ-Hán gió mưa tuôn

Quặn lòng thiếu nữ trôi dòng lệ

Một chút hồn trinh trả thế trần

 

Văng vẳng đàn khuya dưới bóng trăng

Nhặt khoan vần vũ kéo năm cung

Chim kêu cá lội buồn ngơ ngẩn

Thương kẻ xa hương một nỗi lòng

 

Nhớ buổi tiễn đưa vua đích thân

Dắt tay bịn rịn giữa quân thần

Ví cho sơ ý gây ra cảnh

Tình đã tan rồi ôi Hán Nguyên

 

Một bước chân đi ván đóng thuyền

Cạn dòng lá thắm mối tơ duyên

Truyện xưa nhắc lại đầy ai oán

Dương quý Phi tàn hận Lộc sơn....

 

Kẻ ấy gian thông với giặc Hồ

Vẽ tranh bán chuá hại đời hoa

Vì ai mắc bẫy Mao diên Thọ

Nên nguyện sông này rửa nhuốc nhơ

 

Năm tháng trải qua bao nắng mưa

Thương người con gái thác năm xưa

Thuyền qua kẻ lại nhìn thương bến

Văng vẳng còn nghe một giọng sầu

 

Đã mấy ngàn thu đoạn thế trần

Xót người thục nữ thắm môi son

Trăng sao soi tỏ cùng sông nuí

Lữ khách trên thuyền nhớ cố nhân

 

2008 Lu Hà

 

“Phong tình cổ hận Kiều nhi

Ba chìm bảy nổi tương tri luống sầu

Chị em cam chịụ cơ cầu

Trải qua bao cuộc bể dâu não lòng“

 

Bốn câu kết đoạn video này càng rõ ràng minh bạch với cái tiên đề của tập thơ Hồng Nhan Bạc Mệnh, cuộc đời nàng cung nữ của Nguyễn Gia Thiều cũng ai oán bi thương tận cùng khổ đau như cuộc đời nàng Kiều của cụ Nguyễn Du. Bình giảng thơ, bình giảng video hết thơ nọ đến thơ kia dan díu nhau liên kết với nhau theo một trình tự lo rích tâm linh. Ta đang thưởng thức thơ và nghe ngâm thơ mà. Thơ nào thì cũng là thơ cả. Chứ không chăm chăm chỉ chữ nghĩa trong Hồng Nhan Bạc Mệnh. Muốn hiểu tường tận phải dẫn giải nhiều kiến thức văn chương. Khó nhất là điển tích.

 

2.11.2019 Lu Hà

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét