Thứ Bảy, 1 tháng 6, 2024

Thơ Tình Chùm Số 1.223

 

Y Đức Hai Họ Mộng Bào

cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 7

 

Đời lắm kẻ ươn hèn bạc nhược

Liên kết bầy ô trược tiểu nhân

Thức ăn độc hại bất cần

Xanh xao trắng dã dày gân buộc lèo

 

Hồn khí uất hắt heo gió thổi

Ứa vị toan hấp hối kêu rên

Mạch sờ lay lắt chữ huyền

Âm kinh túc ấy dẫn truyền toàn thân

 

Cùng phủ đảm nối dần tâm tạng

Thuộc hỏa kinh theo dạng mạch hồng

Mùa hè sắc đỏ lưỡi phồng

Thất thần tụ máu chất chồng mùi hôi

 

Đường kinh thủ xa xôi âm thiếu

Ngôi tiểu trường ngoại phủ lại càng

Tạng tỳ thuộc thổ sắc vàng

Thuận theo tứ quý tiềm tàng là vui

 

Nếu nước dãi ngọt mùi mạch hoãn

Tiếng ca nghe chắc chắn nuôi hình

Thái âm kinh túc da mình

Hợp cùng phủ vị thần linh trụ trì

 

Tâm thư thái tức thì tạng phế

Ngôi trung châu mạch thể kim ti

Mùa thu sắc trắng vân vi

Vị cay ròng phách biểu bì lông trơn

 

Khi hắt hơi nước nhờn trong mũi

Thái âm kinh bờ bụi tỏ tường

Hợp cùng ngoại phủ đại trường

Tạng kia thận nọ vẫn thường mùa đông

 

Đều thuộc thủy phải thông thuộc trước

Sắc vị đen chỉ được nuôi xương

Rên la nước miếng thất thường

Hai tai chừng đó giữ phương mạch trầm

 

Phần kinh túc thiếu âm phải rõ

Hợp bàng quang phủ đó hóa nguyên

Tiều phu năm tạng đã biên

Còn trong sáu phủ nói liền cho ra

 

Đạo Dẫn cười người ta túi mật

Xuân mộc kinh đúng thật thiếu dương

Tượng theo nắm bắt phải tường

Phủ can muôn mối liệu đường trước sau

 

Chiều ruột nhỏ mau mau hạ hỏa

Tiểu trường hay thoái hóa kinh cầm

Bên ngoài giữ phủ an tâm

Nước trôi rửa sạch âm thầm tạo sinh

 

Phần kinh túc dương minh khẩn thiết

Ăn uống càng phải biết can ngăn

Kiêng khem chồng chất khó khăn

Ruột rà bao tử trở trăn đêm ngày

 

Đại trường nhức nhối ngay uế khí

Phải lo xa tỳ vị hơi cầm

Ních đầy cặn bã xuống hầm

Phân đùn tanh tưởi thân tâm dật dờ.

 

*Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp

16.3.2020 Lu Hà

 

 

 

Y Đức Hai Họ Mộng Bào

cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 8

 

Ép bọng đái thấy dơ nước tiểu

Kinh thái dương tiết niệu hoả hơi

Biết ngay phủ ấy tả tơi

Từ trên xuống giữa dưới thời tam tiêu

 

Do ăn uống nạp nhiều tạp chất

Để toàn thân bần bật rã rời

Hơi thừa bủa khắp ba nơi

Đứng ngồi không vững máu tươi ứa trào

 

Phải kê đúng thuốc sao đặc hiệu

Ngấm vào trong phải hiểu từng toa

Mười hai kinh lạc điều hòa

Giúp cho tạng phủ giao thoa thế nào?

 

Ngư Tiều hỏi tâm bào kinh thủ

Còn liệu chừng tam phủ âm dương

Làm sao y thuật hiền lương

Bệnh trong tạng phủ phải lường thực hư?

 

Đạo Dẫn bảo Nhân Sư chứng thực

Bến ngũ hành ý thức nhân sinh

Mộc kim thủy hỏa thổ trình

Hiểu cho cặn kẽ muôn hình vần xoay

 

Mộc sinh hỏa ai hay thành thổ

Thổ sinh kim hội ngộ thủy ra

Thủy về mộc lại thiết tha

Đất trời sinh sản bao la vô cùng

 

Mộc khắc thổ mịt mùng thổ thủy

Thủy chẳng ưa hỏa lụy chân kim

Kim xa mộc lại đi tìm

Mộc đâu giá lạnh im lìm chúng sinh

 

Tiếng quạ kêu hôi rình xác chết

Việc dữ lành thống thiết muôn loài

Tử sinh trong cõi trần ai

Cỏ cây muông thú u hoài ngàn năm

 

Máy tạo hóa trăng rằm sáng tỏ

Khéo khen thay tay thợ ngũ hành

Phải coi sách ấy cho rành

Dịch kinh hà lạc thuần thành mới thôi

 

Aỉ Thiên Can mấy hồi Ngũ Vận

Phải tinh tường chủ vận là chi?

Thiên can mười chữ có ghi

Anh em thứ lớp nhất nhì chẳng sai

 

Sinh ra được một trai một gái

Năm phương càng chẳng ngại âm dương

Giáp cùng ất mộc đông phương

Bính thì đinh hỏa tỏ tường nam phương

 

Mậu kỷ thổ trung ương thấu tỏ

Canh tân kim vẫn ở tây phương

Thuận theo tạo vật vô thường

Cùng nhâm quý thủy bắc phương ý trời.

 

*Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp

17.3.2020 Lu Hà

 

 

 

Y Đức Hai Họ Mộng Bào

cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 9

 

Năm ngôi chủ chẳng dời thời vận

Suy ngẫm ra thân phận con người

Trần gian dở khóc dở cười

Nghìn năm vương vấn như lời thơ xưa

 

Tiết Đại hàn đến chưa Mộc vận

Trước ba ngày vận Hỏa hận thanh minh

Ba ngày Mang chủng thành hình

Ai hay Thổ vận rập rình theo sau

 

Sáu ngày tới Lập thu Kim vận

Chín ngày đầu lận đận Lập đông

Khen thay tạo vật hóa công

Muôn hình vạn trạng dõi trông mọi miền

 

Cứ năm nhà túc duyên kỳ lạ

Vợ hợp chồng vàng đá trước sau

Giáp chàng nàng Kỷ cưới nhau

Hóa ra vận Thổ một màu sắt son

 

Ất Canh lại héo hon lòng dạ

Mộc cây trầm sỏi đá Đinh Nhâm

Bính Tân xem cũng chẳng lầm

Thủy tràn lai láng lâm dâm sông hồ

 

Vầng quang hỏa anh Mồ Chị Quý

Bướm hoa sầu bi lụy khi mô

Bởi năm hóa tạo ô hô

Đôi bờ ân ái nhấp nhô sóng vờn

 

Giàu tiền bạc chập chờn Kim mệnh

Mộc thành rừng toan tính sau đây

Thủy tuôn cuồn cuộn ngập đầy

Hỏa thành ngọn lửa bấy chầy phương nam

 

Suy sét ra từng năm vận khách

Tính theo niên đành hạch chi ai

Gỉa như Giáp Kỷ trúc mai

Hóa ra hành Thổ khứ lai kể gì?

 

Thổ sinh Kim vận nhi là vậy

Kim sinh thành thủy ấy vận ba

Thủy sinh mộc nảy gần xa

Rừng cây chen chúc đó là vận tư

 

Mộc sinh hỏa luận từ kinh dịch

Bảy mươi hai ngày tính năm nay

Lại dư năm khắc nào hay

Lấy năm Giáp Kỷ lời thaỳ nói ra

 

Bao năm nữa đều là như thế

Phải coi chừng nặng nhẹ vân vi

Đổi thay thay tinh tú các vì

Ai hay xoay chuyển mấy khi ngũ hành

 

Giáp bính mậu nhâm canh thái quá

Bất cập đành nhân quả dương phân

Năm đinh ất kỷ quý tân

Còn bao trắc trở về phần âm can

 

Phải biết được đaị hàn trước tiết

Mười ba ngày khẩn thiết thái tiên

Rồi sau tính đến hậu thiên

Hai mươi sáu chẵn hậu tiên giao bàn

 

*Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp

17.3.2020 Lu Hà

 

 

 

Y Đức Hai Họ Mộng Bào

cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 10

 

Đất có hậu thế gian trời định

Cậy khôn ngoan mưu tính cái gì?

Ngư tiều đến ải Địa Chi

Thấy non lục khí đường đi ngoằn ngoèo

 

Rừng âm u hắt heo chủ khí

Cỏ đá chen vị trí đổi thay

Mỉm cười Đạo Dẫn cho hay

Có mười hai chữ vần xoay bốn mùa

 

Dần Mão Mộc sim mua nở rộ

Tiếng ve sầu tu hú gọi hè

Hương thu thân dậu kim khoe

Tiết đông hợi tý nước be dũng tuyền

 

Thìn tuất sửu mùi liên đất lạnh

Tứ quý càng hiển hách từng mùa

Luân phiên sáu đợt ấn bùa

Líu lo chim chóc gió lùa nắng xuân

 

Lửa phừng phừng tới tuần quân hỏa

Tiết xuân phân chuyển hóa hai ba

Viêm oai hừng hực sơn hà

Thái âm mưa móc cửa nhà nhá nhem

 

Dương minh tới lom lem khô héo

Thái dương hàn khí kéo rèm bưng

Hân hoan uống chén rượu mừng

Trai thanh gái lịch tưng bừng kết hôn

 

Sáu hơi chủ thần hồn chẳng dứt

Cứ từng năm giành dựt trời an

Luân phiên từ tiết đại hàn

Chính trong ngày ấy giao ban khí đầu

 

Hơi bình chẳng trước sau tuần tự

Sách Tàu ghi hai chữ tề thiên

Bảo rằng “binh khí chi niên”

Để cho chủ tử chính chuyên canh phòng

 

Từ sáu cặp thong dong xung đối

Xây vòng chia chẳng vội định ngôi

Ô hay khách khí xa xôi

Mong cho tý ngọ bồi hồi thiếu âm

 

Xây một tòa thái âm quân hỏa

Sửu đối mùi đe dọa thiếu âm

Thái dương hàn thủy xuống tầm

Đùng đùng sấm chớp mưa dầm liên miên

 

Dần đối thân hoàng thiên tướng hỏa

Khí thiếu dương phong tỏa giữ trời

Quyết âm xuống đất muôn nơi

Mộc truyền lan khắp xanh tươi một màu

 

Năm mão dậu nhạt nhòa tý ngọ

Ngược lại như chăng chớ tuất thìn

Đắn đo tỵ hợi mỏi nhìn

Đất trời u ám kìn kìn mây đen

 

Giữ hoàng thiên vốn quen quân hỏa

Dưới trần gian kim táo hai nơi

Cầm quyền khí bốc lên trời

Tư thiên tả hữu chơi vơi nẻo nào

 

Ta cũng biết âm hao sáu khí

Nam bắc kia ngọ tý chi niên

Tuần hoàn ra thế liên miên

Đất xung bên tả lan truyền khí sơ.

 

*Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp

18.3.2020 Lu Hà

 

 

 

Y Đức Hai Họ Mộng Bào

cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 11

 

Khí thứ hai dật dờ bên hữu

Ngôi thiên tư thành tựu thứ ba

Trời kia bên tả tư ra

Đất thì bên hữu rõ là khí năm

 

Tư tuyền chung lăm lăm khí sáu

Hơi bốn mùa nương náu đến nay

Thung thăng khoảng sáu mươi ngày

Tám mươi bảy khắc nữa rày hữu cơ

 

Ngọn lúa đòng phất phơ thấp thoáng

Yếu quyết xưa ló dạng đầu bờ

Niềm vui thao thức bao giờ

Hai ngôi thoái lại đợi chờ mỗi niên

 

Cứ xuôi ngược đầu tiên chẳng trách

Tý thiên tư bức bách về đâu

Hai heo ba chuột bốn trâu

Năm hùm sáu thỏ trọn xâu dẫn truyền

 

Mão tư thiên xoán liền ngôi sửu

Dấy khí sơ hùm thỏ đến rồng

Rằng hai ba bốn đã thông

Năm trăn sáu ngựa trọn công tư truyền

 

Hai năm ấy lệ biên lâu nữa

Này những năm thấp thổ tư thiên

Thấy ngay hàn thủy đến phiên

Như năm tướng hỏa mộc nhiên tạo thành

 

Bởi chính hóa giao tranh đối lại

Chẳng đồng nhau trở ngại gốc trồng

Ngựa dê gà cọp heo rồng

Chuột trâu khỉ thỏ rắn muông đua giành

 

Theo gốc số bẩm sanh tạo hóa

Đối nghịch nhau thời họa thực hư

Thiếu thừa theo luật bù trừ

Chỗ tiêu nơi bản đều từ ấy ra

 

Thì hãy dở sách tra sẽ thấy

Càng thấm nhuần lời dạy thực hay

Cổ kim năm khí vận may

Máy trời sáu khi xưa nay tỏ tường

 

E khách chủ hai đường lẫn lộn

Khó toan bề bận rộn ngó coi

Đạo Dẫn tạo vật sáng soi

Khí theo khí xét rạch ròi sử biên

 

Như giáp tý chi niên giả dụ

Vận khí chia quyền đủ một năm

Giáp tìm thổ vận duyên cầm

Tý đưa quân hỏa âm thầm khí đi

 

Khách gia cũng chỉ vì trên chủ

Chủ chịu lòn khí tụ ngưng tà

Đất trời chẳng chịu dung hòa

Trái ngang hơn thiệt mới ra bất tề

 

Mùa xuân ấm chẳng về xoa dịu

Gió heo may bấu víu lạnh lùng

Mùa hè hơi nóng tận cùng

Khí âm ẩn núp hãy hùng khí dương

 

*Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp

19.3.2020 Lu Hà

 

 

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét